Reviewed by Hoang NViet.
Một số bạn trẻ sẽ cho rằng “tình yêu”, hay ngắn gọn, “yêu” là công việc chỉ dành cho trái tim, và rằng nếu có vấn đề gì với trái tim, hay nói cách khác, cảm xúc thì mối quan hệ này sẽ không ổn. Vì sao tình yêu không có chỗ cho suy nghĩ, cho sự học hỏi? Hôm nay tôi sẽ đưa tới các bạn cuốn sách All about love của bell hooks (bạn không đọc nhầm đâu, tên tác giả này không viết hoa), qua 13 chương để cùng tìm được một chỉ dẫn rõ ràng hơn về tình yêu “love”.
bell hooks là ai? bell hooks là bút danh của Gloria Jean Watkins, là một cây viết, nhà hoạt động xã hội và nữ quyền Mỹ da đen. Bút danh này của bà được mượn từ người cụ của bà “Bell Blair Hooks”. Cuốn sách này có gì thú vị? Đơn giản là sự diễn giải mạch lạc cùng vừa đủ sự chuyên sâu về phân tích tâm lý và xã hội của bà sẽ khiến bạn muốn dừng việc đọc các diễn giải cảm tính trong đa số các cuốn self-help tại Việt Nam, kể cả mô hình sao Hỏa - sao Kim mà nhìêu người coi là kim chỉ nam. Tôi không nói quá đâu. Cuốn sách của bà viết xoay quanh việc mô hình gia trưởng cũng như các hiểu biết thời thơ ấu ảnh hưởng tới các quan niệm của chúng ta về “love” cùng với các gợi ý để làm việc với cảm xúc sau này. Trong bài review sách này, tôi sẽ sử dụng từ “love” thay vì “tình yêu” hay “yêu”, do tính chất của từ này trong tiếng anh có khả năng sử dụng vừa như một động từ cũng như danh từ.
Với đa số các từ điển, “love” được hiểu là tình yêu lãng mạn. Tuy nhiên nhiều người sẽ tìm thấy cảm xúc này khi không ở trong sự tương tác lứa đôi. Và đa số trường hợp, nó được định nghĩa như danh từ. Bên cạnh đó, trong khi đa số chúng ta được dạy rằng chúng ta không có kiểm soát với cảm xúc, chúng ta chấp nhận rằng chúng ta kiểm soát được hành động. Việc bắt đầu bằng việc nghĩ “love” như một hành động hơn là một cảm xúc là một cách để khiến những người dùng từ này có trách nhiệm hơn. Tác giả nhắc tới khái niệm “love” của Erich Fromm như là “ý chí để mở rộng cái tôi với mục đích nuôi dưỡng sự phát triển toàn diện của bản thân hoặc người khác […] Love là hành động của ý chí, là mục đích cũng như là hành động. Ý chí đưa tới lựa chọn. Chúng ta không buộc phải yêu. Chúng ta chọn để yêu.”
Từ cách hiểu “love” như một hành động, chúng ta lật lại quá khứ. Đây là lúc tác giả bắt đầu chương II Clarity. Từ nhỏ những đứa trẻ được học những mô hình sơ cấp nhất của “love” như việc đơn giản chỉ làm hài lòng cha mẹ. Mô hình này duy trì ở vị trí độc tôn thời gian dài khiến cho những đứa trẻ gặp khó khăn sau này trong việc nhận thức các cảm xúc sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, chúng cũng được dạy rằng, “love” di truyền, tức một đứa trẻ sinh ra sẽ “love”’ một cách tự nhiên những người trong gia đình. “Love” tiếp tục được khẳng định không phải là do lựa chọn. “Love” thực hành trong nghĩa vụ, thậm chí cả trong “abuse”. Những đứa trẻ khi đó vẫn ở lại với những người làm tổn thương chúng do chúng đã đặt nhiều tình cảm vào mối quan hệ. Đồng thời chúng được dạy bám vào những chỉ dẫn sai lầm rằng những hành động đó thể hiện sự yêu thương, từ chối những khoảng khắc “abuse” và nhớ sâu hơn những hành động săn sóc ngẫu nhiên. Được lớn lên với các quy tắc và niềm tin của xã hội thì cha mẹ chúng ta, dù nỗ lực, cũng không đưa tới được cho những đứa trẻ một hiểu biết rõ ràng, dù là tương đối, về tình yêu. Chúng ta cần tách “love” khỏi “abuse”. Điều này sẽ khó hiểu với những người được học cách kỷ luật bằng trừng phạt trong quá trình lớn lên. Một cách đơn giản nhất để chúng học kỷ luật là trở nên ngăn nắp trong đời sống hàng ngày, dọn dẹp những thứ của chúng khi làm bừa ra. Điều này dẫn chúng trở nên có trách nhiệm hơn và học cách dọn dẹp được những rối loạn cảm xúc sau này (emotional mess).
Quay trở lại, mô hình gia trưởng (patriarchy) ảnh hưởng như nào, được tác giả trình bày chi tiết hơn trong chương III Honest, không chỉ tới nam giới mà cả nữ giới. “Người đàn ông thực thụ” được hiểu là gì? Phim ảnh và truyền thông khắc họa một hình mẫu: một người mạnh mẽ, làm mọi thứ họ thích, đứng trên luật lệ. Và điều tách biệt “đàn ông” khỏi “thiếu niên” đó là sự cứng rắn. Từ đó, những cậu bé học cách che giấu cảm xúc thật của bản thân như một kỹ năng để kết giao trong bạn bè của chúng. Một sự thật là nhiều những chương trình phục hồi cho bệnh nhân luôn nhấn mạnh rằng “you are only as sick as your secrets”. Để học cách yêu, chúng ta nên học cách nói thật với bản thân, và với những người khác. Tuy vậy, nhưng nhiều người phụ nữ, kể cả những người theo phong trào nữ quyền, họ không chấp nhận được khi đàn ông bộc lộ cảm xúc. Đơn giản là khi chúng ta lắng nghe suy nghĩ, chia sẻ, cảm xúc của họ, chúng ta không còn có khả năng áp đặt những hình mẫu của chúng ta lên họ. Vậy nên, nói dối có thể khiến tất cả cảm thấy tốt hơn, nhưng cuối cùng không giúp ai hiểu về tình yêu cả.
Trong tiến trình lịch sử, chúng ta đều biết rằng các cộng đồng và nhóm nhỏ là những cấu trúc giúp loài người là sinh vật có khả năng sinh tồn và phát triển văn minh hơn các loài khác. Và cấu trúc này không hề kém tính hiệu quả trong quá trình tìm “love” khi được trình bày ở chương VIII: Community. Đa số chúng ta được nuôi lớn để tin rằng chúng ta sẽ chỉ tìm thấy tình yêu ở gia đình đầu tiên, nơi chúng ta được nuôi lớn, hoặc nếu không ở đây, thì ở gia đình thứ hai, với vợ hoặc chồng của chúng ta. Đa số chúng ta học từ nhỏ rằng tình bạn không được bao giờ nên nhìn nhận quan trọng như mối quan hệ gia đình. Tuy nhiên tình bạn là nơi mà cho phần lớn chúng ta được tiếp xúc lần đầu với một cộng đồng yêu thương và chăm sóc một cách hướng thiện. Học “love” trong tình bạn giúp chúng ta có khả năng mang “love” này tới những tương tác khác với gia đình hay trong hôn nhân. Một sự thật khác là chúng ta thường trân trọng tình bạn khi mang lại sự thoải mái cho cả hai bên, và sẵn sàng đặt nó ở vị trí thứ hai, đặc biệt sau vị trí với tình yêu lãng mạn (romantic loves). Thực tế là khi tình yêu lãng mạn càng thực sự thì chúng ta càng ít cần hạ giá trị của mối qua hệ bạn bè để tập trung. Chúng ta sẽ học được rằng xây dựng các tình bạn có chiều sâu sẽ gián tiếp giúp ta củng cố toàn bộ các mối quan hệ thân mật khác.
Ở những chương khác còn lại, tác giả tiếp tục khiến người đọc đặt câu hỏi tìm cách kiến giải như điều gì khiến chúng ta cho rằng những suy nghĩ tiêu cực sẽ thực tế hơn? Điều gì khiến người phụ nữ có lập trường bớt nữ tính hơn? Cuộc thảo luận về chống “domestic violence” sẽ kết thúc khi đề cập tới thách thức chế độ gia trưởng có nghĩa là gì? Tương quan như thế nào giữa hai người? Chúng ta đeo lên mặt nạ gì trong tình yêu? Và bằng cách nào “love” mà chúng ta học được từ cộng đồng sẽ ở lại và theo chúng ta tới mọi nơi.
Bất kỳ lúc nào tôi crush hay ở trong một mối quan hệ nào đó, tôi lại có động lực để đọc lại cuốn sách này một lần nữa. Cảm ơn những người đã bước qua những năm đầu tuổi trẻ của tôi với nhiều cung bậc cảm xúc, giúp tôi hiểu về bản thân và cuộc sống hơn. Tôi viết bài này chủ yếu cho bản thân và mong bạn đọc nào đó có thể thấy nó hữu dụng.