Tương tác thảo luận tới mô hình tâm trí

Jul. 31, 2022

Nhân cuộc trò chuyện hôm qua với một người bạn của tôi về chuyện cô ấy trôi vào những gì được nghe chia sẻ rất hay bởi một người nào đó, cụ thể trường hợp này với cô ấy là một diễn giả. Sau đó, cô ấy chia sẻ chuyện thầm cảm ơn một khán giả khác đã đặt câu hỏi phản biện lại diễn giả từ một góc nhìn khác, để lộ một thế giới toàn vẹn khác song song với những gì đang diễn ra tại hội trường. Cô quy chuyện mình bị chìm vào các ý tưởng của diễn giả mà không có một sự tự chủ nào, là do không có đủ sự logic, và cô bắt đầu kể về các kiểu reasoning: deductive, inductive, abductive, analogy. Nghe chia sẻ đấy của cô, tôi chợt có một góc nhìn khác, bật ra một ví dụ như này. Giả lập tình huống như một đứa nhỏ và một người lớn đi vào siêu thị. Đứa nhỏ đi vào một gian hàng, nó bắt đầu nhìn từng sản phẩm một và tràn đầy sự thích thú với chúng. Đứa nhỏ nhìn đầu tiên nhìn vài con búp bê, thấy thích, bên cạnh là một số mô hình nhà cửa, cũng thấy thích, bên cạnh là vài hộp bánh, trông thích mắt ghê, bên cạnh nữa là cái áo phông nhân vật hoạt hình, trông thật ấn tượng. Và cứ như vậy, đứa nhỏ có một cảm giác thích thú khi đi qua một lượt gian hàng này. Cơ mà câu chuyện với người lớn thì lại khác. Họ nhìn được vài ba sản phẩm liên tiếp, thấy sự không đồng nhất ở gian hàng này trong siêu thị, và nghĩ về sự không đồng nhất đấy. Tóm lại, tôi nhìn đến khả năng nhận thức và khả năng tập trung hơn là về mặt kỹ thuật lý luận. Tôi so sánh lại trải nghiệm trong quá khứ của cô ấy khi tiếp xúc những cuộc thảo luận với quy mô khác nhau: cô ấy có thể hiểu và bám sát theo mạch trò chuyện của hai đứa tuổi teen, nhưng sẽ gặp trục trặc khi bám theo câu chuyện của hai học giả lớn chẳng hạn. Điều này cho thấy cô ấy ở chặng nào đó ở giữa, và cô ấy có thể tiến triển hơn bằng cách tiếp xúc với những câu chuyện có cấu trúc bên trên khả năng của bản thân một xíu. Chia sẻ của cô ấy về trải nghiệm trong cuộc thảo luận này nếu được nhìn rộng ra thì có thể nhìn thấy vài ý: khi bạn mất cảm giác về dòng ý tưởng của bản thân (thought blocking: tình huống mà bạn bất ngờ dừng nói chuyện ở giữa câu không lý do), mất cảm giác về dòng ý tưởng của những người khác (Theory of Mind), và mô hình tâm trí (mental model).

Cá nhân tôi từng trải qua thời gian dài trước kia gặp thường xuyên tình trạng thought blocking. Trong những năm trở lại đây khi tìm hiểu về tâm trí và để ý hơn những sự kiện diễn ra trong tâm, những chuyện như vậy có vẻ giảm đi đáng kể. Nhiều website miêu tả hiện tượng này mang tính bệnh lý, tuy nhiên, tại đây hiện tượng này có thể xảy ra khi chúng ta bắt đầu thảo luận những nội dung nhạy cảm về mặt tâm lý (chẳng hạn như chia sẻ về một trải nghiệm quấy rối với nhà tham vấn). Thought blocking có thể phân biệt với hai trạng thái dễ bị nhầm khác: trạng thái thỉnh thoảng đãng trí, và trạng thái chủ đích tránh né các suy nghĩ và câu nói về một chủ đề nào đó, ở chỗ, người gặp sự đãng trí có thể được gợi lại qua các câu hỏi sâu sắc (thoughtful) hoặc tập trung lại vào chủ đề, nhưng thought blocking, ngoài chuyện đối tượng không chủ động, đối tượng thực sự không thể hồi tưởng lại được điều họ định nói là gì.

Theory of Mind tôi từng có ghi lại vài nghiên cứu cơ bản về trẻ em tại đây. Các tìm hiểu về Theory of Mind với người lớn cũng cần được thu thập và xuất bản trên blog trong thời gian tới.

Mô hình tâm trí (mental model) tái hiện lại mô hình thu nhỏ của các mô hình chạy thật ngoài đời thực, có thể cảm nhận hơn qua một miêu tả dưới đây:

The image of the world around us, which we carry in our head, is just a model. Nobody in his head imagines all the world, government or country. He has only selected concepts, and relationships between them, and uses those to represent the real system (Forrester, 1971).

Để kiểm tra được tính vững vàng của một hệ thống, một giả thuyết nào đó, chuyện tự nhiên là ta sẽ đặt chúng vào những tình huống giả định khác, bắt đầu cho quá trình counterfactual thinking. Chợt nhận ra đây cũng chính là điều khiến cho cô bạn của tôi gặp bất ngờ, trong chia sẻ của cô ở buổi gặp với diễn giả. Hy vọng tôi sẽ thu xếp được thời gian để đưa một bài viết về counterfactual thinking cùng với các kết quả từ Laird, Byrne và các cộng sự được xuất hiện.