Đồn tin (gossip)

Jan. 25, 2025

Tối qua có dịp ngồi thảo luận và nghe về chia sẻ của một người bạn. Có nhiều thứ sau hành trình vừa rồi sẽ cần tôi ngồi xuống để biết được rằng tôi đã có sự thay đổi. Nên đây cũng là dịp tôi như được ngồi nghe lại một phiên bản của tôi trước đây, thực ra là cũng không cách xa bao lâu, có lẽ là trước hành trình vừa qua. Chuyện phiếm và tin đồn là những thứ tôi từng thấy chúng rườm rà, vô nghĩa. Tôi tin là tôi vẫn vẫn giữ suy nghĩ đó ngay trước chuyến đi. Đã từ rất lâu, từ khi tôi có được hình dung về khái niệm chuyện phiếm và tin đồn thì tôi đã không có thiện cảm với chúng. Và thực tế, khi nhìn lại, cảm nhận này có ích cho những người mới đặt chân thời gian đầu đầu mò mẫm trên internet, như một rừng thông tin, để đầu tiên cần đi tìm hướng di chuyển như thế nào trong cánh rừng này.

Giờ tôi lại thấy điểm chung của những hoạt động đó với hành trình tôi đang tìm hiểu về văn hóa Khmer. Điểm mấu chốt của chuyện phiếm thực ra chúng không nói về những gì chúng đang hiển thị trên mặt chữ, mà chúng nói về những thứ xung quanh khác. Tương tự với tin đồn, thực ra chúng đang là quá trình xây dựng giả thuyết và tìm kiếm cách manh mối. Tôi cho rằng, chuyện chúng ta ở gần những cộng đồng có đặc tính cụ thể (ví dụ như: không mang tính xây dựng, không có tính năng suất), khiến cho những hoạt động mang tính nhóm này có trải nghiệm không tốt, dẫn đến hiểu nhầm một cách méo mó. Trong cuộc thảo luận với người bạn này, tôi có đưa ra hai ví dụ về tin đồn. Ví dụ đầu tiên là một chi tiết tại sự kiện Lễ trao giải Làn sóng xanh lần thứ 27 gần đây, đó là tình huống Soobin thì thầm với hoa hậu Thanh Thủy. Cộng đồng mạng được dịp đóng vai đội nghiên cứu sinh hùng hậu tìm các manh mối để xác lập các giả thuyết có thể về mối quan hệ giữa hai người. Ví dụ thứ hai là chuyện Shaquille O’Neal, một tay chơi bóng rổ chuyên nghiệp và cũng là nhà đầu tư nổi tiếng, từng là một trong những người đầu tiên đầu tư vào Google khi mới hoạt động vào 1998. Chuyện đầu tư này của Shaq mang tính tình cờ (by accident), vào năm 1999, khi ngồi ăn cùng với một số quý ông khác ở khách sạn Four Seasons. Ngoài rất nhiều những ví dụ tương tự hai ví dụ này, nếu bỏ qua chuyện so sánh về mức độ tham gia của người nhận thông tin, ở hai ví dụ trên, ta có thể thấy qua sự khác biệt về tính chất của tin đồn cũng như mức độ ảnh hưởng thực sự tới đời sống cá nhân.

Chuyện đồn tin không được đề cập nhiều góc độ này ở trong xã hội cũng như giới nghiên cứu, tôi có tìm được tới bài báo nghiên cứu của Baumeister & Zhang (2004) chia sẻ góc nhìn thú vị về những lợi ích và vai trò dễ bị bỏ qua của hoạt động xã hội này. Ở bài báo, tôi có thể điểm qua vài ý chính, bắt đầu từ việc các tác giả đưa ra góc nhìn hấp thụ văn hóa (cultural learning) đối với việc đồn tin. Đồn tin là một cơ chế để những người mới tham gia học được những quy định và phép tắc không chính thức của văn hóa ở khu vực cụ thể, mà không mang ý định xấu tới một đối tượng cụ thể nào. Chẳng hạn, về văn hóa doanh nghiệp, ở cả những doanh nghiệp lớn như HP hay IBM, cho những người mới hiểu những quy tắc ở nơi mới, ví dụ như những gì nên và không nên nói với cấp trên, hay, như tình huống gia đình, một đứa trẻ được mẹ kể về chuyện đứa trẻ khác trong khu chơi ở lòng đường gặp chấn thượng khi xe đụng, với mục đích không muốn cho đứa con của bà gặp tình huống tương tự. Trong bài báo, các tác giả có kể tới một nghiên cứu (Cox, 1970) về Hopi Indian, một văn hóa không có chữ viết. Ở văn hóa này, chuyện đồn tin như là một cách quản lý thông tin làm cơ sở cho những cuộc tranh luận, xét xử, quyết định. Tôi không bàn ở đây về mặt ngữ nghĩa học của chuyện đồn tin, thì việc hấp thụ văn hóa qua lối tự sự như này tạo ấn tượng và kết nối hiệu quả hơn với người nghe so với một lối trình bày triết lý, trừu tượng.

Bài báo này có giới thiệu những vị tác giả khác với góc nhìn thú vị về đồn tin từ trước đó rất lâu như Dunbar tác phẩm Grooming, Gossip, and the Evolution of Language (1996), và xa hơn nữa có Yerkovich (1977). Với thời gian hạn hẹp của những ngày Tết, hẹn một bài viết tiếp theo sẽ sớm có về chủ đề này.