Mở đầu bài viết bằng lần lần mở dần song đề đạo đức với nhiều dữ liệu hơn: bạn có nên báo cáo sai phạm của đồng nghiệp? Bạn có làm điều đó nếu hiện tại đang khủng hoảng kinh tế? Và quyết định sẽ là gì nếu bạn biết họ có thể tìm công việc mới một cách dễ dàng?
Trong bài viết có bàn về thí nghiệm giật điện một nhóm ba nạn nhân với hai lựa chọn duy nhất: bỏ không và hai nạn nhân bị giật, hoặc chọn chính xác một nạn nhân bị giật. Thí nghiệm này có chia sẻ dữ liệu thú vị: những người tham gia đều có những triết lý riêng của họ, như chủ động không gây hại, hay giảm thiểu tổng thiệt hại, hay thậm chí suy tư trên sự cô đơn trong trải nghiệm của những người bị giật điện, rằng nếu có những người cùng bị giật thì người giật sẽ cảm thấy bớt cô đơn hơn. Nhưng rồi những triết lý này bắt đầu đảo lộn, khi bối cảnh được đưa vào, về câu chuyện ai đã từng trải qua cơn giật, ai không, dẫn đến chuyện quyết định lúc có và không có bối cảnh của những người ra quyết định chẳng liên quan gì tới nhau cả.
Lúc mới đọc bài này thì đang hơi oải sau một ngày dài chạy xe liên tục, rồi tôi nhớ về câu chuyện liên hệ giữa lựa chọn đạo đức và khả năng thẩm tra trong những cuộc thảo luận tâm lý cách đây 1 năm. Tôi đi ngược về thời tuổi teen. Bằng cách nào đó, tuổi trẻ của tôi đã dùng những “triết lý từ chân không”, tức những triết lý lược bỏ bối cảnh, phần nhiều tiếp nhận nhiều từ sách báo, để chống lại sự dễ dãi, “bằng lòng”, “dĩ hòa vi quý”, và đặc biệt là sự thống trị về trải nghiệm của những người đi trước. Nó hiệu quả trong việc tạo ra khoảng cách và không gian trong thời gian đầu, nhưng khi không ý thức được mặt trái, sự “khô cằn” là điều có thể nhìn thấy từ lối sống này. Tất cả sự phong nhiêu cần thiết của đời sống hàng ngày đem đến cho suy tư đều bị chặn trước cửa, rồi với sự chật chội đó, thì lại đi vay mượn những thứ khác để khôi phục. Một vòng luẩn quẩn.